NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY - farm04.gox.vn

vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu ... thực tiễn có thể để “Nâng cao hiệu quả dạy và học môn hoá học bằng...

5 downloads 227 Views 378KB Size
Trường THPT Tân Lâm

Kinh nghiệm dạy học

NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƢỢNG THỰC TIỄN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC A. ĐẶT VẤN ĐỀ I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN Giáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ mà tất các các quốc gia trên thế giới đều coi là chiến lược của dân tộc mình .Vì thế đại hội lần IX, Đảng cộng sản Việt Nam trong nghị quyết ghi rõ: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, tương lai của một dân tộc, một quốc gia phải nhìn vào nền giáo dục của quốc gia đó. Nêu về tầm quan trọng của giáo dục cho thế hệ trẻ nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần công lớn công học tập của các em”. Trước khi Người ra đi, trong di chúc chủ tịch Hồ Chí Minh có dặn: “Phải giáo dục thế hệ trẻ để cho họ trở thành người vừa hồng vừa chuyên”. Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật của nhân loại phát triển như vũ bão, nền kinh tế trí thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ của ngành giáo dục vô cùng to lớn: Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, vừa mang tính giáo dục, vừa mang tính giáo dưỡng nhưng cao hơn là giáo dưỡng hướng thiện khoa học. II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN. Phân môn hoá học trong trường trung học phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành... của hoá học. Học hoá để hiểu, giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản ứng hoá học... Đồng thời là khởi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Hoá học góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con ngời... GV: Bùi Xuân Đông

1

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học Để đạt được mục đích của học hoá học trong trường phổ thông thì giáo viên dạy hoá học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy, ngoài những hiểu biết về hoá học, người giáo viên dạy hoá học còn phải có phương pháp truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hoá học của học sinh. Đó là vấn đề cần quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Trong sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) này, tôi có đề cập đến một khía cạnh “Nâng cao hiệu quả dạy và học môn hoá học bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” với mục đích góp phần sao cho học sinh hóa học dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học… Để hoá học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “thuật ngữ khoa học”. III/ THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1/Thực trạng: Trước tình hình học hoá học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về môi trường, về tư tưởng vừa mang bản sắc dân tộc mà không mất đi tính cộng đồng trên toàn thế giới, những vấn đề cũ nhưng không cũ mà vẫn có tính chất cập nhật và mới mẽ, đảm bảo: tính khoa học – hiện đại, cơ bản; tính thực tiễn và giáo dục kỹ thuật tổng hợp; tính hệ thống sư phạm. Tuy nhiên mỗi tiết học có thể không nhất thiết phải hội tụ tất cả những quan điểm nêu trên, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đừng quá lạm dụng khi lượng kiến thức không đồng nhất . * Thực tế giảng dạy cho thấy: Môn hoá học trong trường phổ thông là một trong môn học khó, nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn học hoá học, ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của hoá học. Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đối tượng giáo dục: Chưa đặt ra cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đồng loạt cùng một cách dạy, một bày giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò là không ít. Do phương pháp ít có tiến bộ mà người giáo viên đã trở thành người cảm nhận, truyền thụ tri thức một chiều. Giáo viên nên là người hướng dẫn học sinh chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức hoá học.

GV: Bùi Xuân Đông

2

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học 2/ Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên để việc giảng dạy môn hoá học đạt hiệu quả cao hơn tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phƣơng pháp trong các bài giảng hoá học: Một trong những điểm tôi đã làm là “Nâng cao hiệu quả dạy và học môn hoá học bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học”. Có những vấn đề hoá học có thể giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hoá học trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ; lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học; làm cho hoá học không khô khan, bớt đi tính đặc thù và phức tạp. Trong phạm vi đề tài tôi kkông có tham vọng giải quyết mọi vấn đề trong thực tiễn có thể để “Nâng cao hiệu quả dạy và học môn hoá học bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” mà chỉ nêu lên một vài suy nghĩ, đề suất của cá nhân coi đó là kinh nghiệm qua một số ví dụ minh hoạ, với mong muốn góp phần tạo ra và phát triển phương pháp dạy hoá học hiệu quả cao hơn qua các bài giảng hoá học. B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Từ cơ sở lý luận và thực tiễn dạy học, tôi đã thấy rằng: “Nâng cao hiệu quả dạy và học môn hoá học bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” sẽ tạo hứng thú, khơi dậy niềm đam mê; học sinh hiểu được vai trò và ý nghĩa thực tiễn trong học hoá học. Để thực hiện được, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với từng học sinh ở thành thị, nông thôn …; đôi lúc cần quan tâm đến tính cách sở thích của đối tượng tiếp thu, hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà; đôi lúc có khôi hài nhưng sâu sắc, vẫn đảm nhiệm được mục đích học môn hoá học. Tuy nhiên, thời gian giành cho vấn đề này là không nhiều, “nó như thứ gia vị trong đời sống không thể thay cho thức ăn nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn uống ”. I/ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: “Nâng cao hiệu quả dạy và học môn hoá học bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách: GV: Bùi Xuân Đông

3

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học 1. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày, thường sau khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó? Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo. 2. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường qua các phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học. Giáo viên có thể giải thích để giải toả tính tò mò của học sinh. Mặc dù vấn đề được giải thích có tính chất rất phổ thông. 3. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay cho lời giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thường mà hàng ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá trình học tập. 4. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua các bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi làm bài tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn giải được bài toán hoá đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động, hiểu được bài toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào? 5. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập thoải mái. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hoá. 6. Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường ở địa phương, gia đình … sau khi đã học bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc bắt gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng hoá học vào đời sống thực tiễn. 7. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm cho học sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề cập theo tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với thực tiễn hàng ngày. II/ CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN: GV: Bùi Xuân Đông

4

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học 1/ Để tổ chức thực hiện đƣợc giáo viên có thể dùng nhiều phƣơng tiện, nhiều cách nhƣ: bằng lời giải thích, hình ảnh, đoạn phim, … có thể tiến hành dạy trong hoàn cảnh dùng máy chiếu hay không dùng máy chiếu … Điều này cần phụ thuộc vào điều kiện ở mỗi trường, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể và phong cách dạy khác nhau để huy động tối đa. Vì hiệu quả giáo dục với nội dung đề tài này, có những kinh nghiệm có thể áp dụng cho người này nhưng có những phong cách không thể áp dụng cho giáo viên khác. Vì phong cách dạy “nó như tính cách của mỗi con người không thể ai cũng giống ai” nhưng đảm bảo được nội dung dạy học theo yêu cầu của chương trình. 2/ Một số ví dụ minh họa thông qua một số hiện tƣợng trong thực tiễn trong số hàng nghìn, hàng vạn hiện tượng, tình huống thực tiễn có thể áp dụng: * Ví dụ 01: Vai trò của Ozon trong đời sống và công nghiệp nhƣ thế nào? Ozon có khả năng “cải tạo” nước thải, có thể khử các chất độc như: Phenol, hợp chất Xianua, nông dược, chất trừ cỏ, các hợp chất hữu cơ gây bệnh … có trong nước thải và Ozon có thể tác dụng với các ion kim loại (sắt, thiếc, chì, mangan…) Biến nước thải thành nước sạch vô hại. Trên tầng cao khí quyển 10 − 30km quanh Trái đất, Ozon tồn tại thành một tầng khí quyển riêng, có khả năng hấp thụ tia tử ngoại phát ra từ mặt trời. Vì các tia tử ngoại làm cho người, động thực vật bị đột biến gen, gây bệnh nan y … Gần đây do công nghiệp phát triển, các nhà máy xuất hiện khí thải, động cơ phản lực … thải vào khí quyển một lượng bụi và khí ô nhiểm, thì Ozon lại góp phần oxi hoá chất gây ô nhiểm, cũng chính vì vậy tầng Ozon bị mỏng dần. Trong vòng 50 năm gần đây lượng Ozon mỏng đi khoảng 1%, có một số nơi tầng Ozon bị thủng và gây ra không ít hiện tượng như: bảo, lũ lụt, cháy rừng, bệnh nan y … Áp dụng: Đây là vấn đề có liện quan đế giáo dục môi trường và qua bài học, học sinh hiểu được tầm quan trọng của Ozon, vừa có ý thức bảo vệ môi trường và kích thích sự tìm hiểu về vấn đề này. Giáo viên có thể đưa vào bài giảng về phần Oxi (lớp 8 và lớp 10). * Ví dụ 02: Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trƣớc một ít muối ăn (NaCl)? Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 100oC, nếu ta thêm NaCl thì lúc đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi (dung dịch NaCl loãng) là > 100 oC. Do nhiệt độ sôi của nước muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian luộc rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy khi đó rau muống sẽ mềm hơn và xanh hơn. GV: Bùi Xuân Đông

5

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học Áp dụng: Vấn đề này có thể có học sinh biết nhưng có học sinh không để ý và nếu được biết đến thì các em có thể tiến hành thí nghiệm ngay trong mỗi buổi nấu ăn, góp phần tạo thêm kinh nghiệm cho học sinh, rất thiết thực. Có thể đưa hiện tượng này vào trong bài: một số muối quan trong ở lớp 9, hợp chất muối clorua ở lớp 10 và hợp chất quan trọng của Natri ở lớp 12. * Ví dụ 03: Vì sao cồn có thể sát khuẩn? Cồn là dung dịch Ancol etylic (C2H5OH) có khả năng thẩm thấu rất cao, có thể xuyên qua màng tế bào tiến sâu vào trong gây đông tụ protein làm cho tế bào bị chết (Do protein là cơ sở sự sống của tế bào). Thực tế thấy rằng chỉ có cồn 75% là có khả năng sát trùng tốt nhất, vì nếu cồn > 75% thì nồng độ cồn quá cao làm cho protein bị đông tụ nhiều, làm protein trên bề mặt vi khuẩn đông cứng hình thành một lớp vỏ cứng ngăn không cho cồn thấm vào nên vi khuẩn không bị chết. Nếu cồn quá loãng (< 75%) thì hiệu quả sát trùng kém. Áp dụng: Trong y tế, cồn được sử dụng đại trà khi tiêm, rửa vết thương … nhưng có ít người quan tâm tại sao lại dùng cồn? Trong khi học, nếu học sinh được biết sẽ rất tốt cho cuộc sống. Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào trong các tiết dạy về bài Ancol etylic (ở lớp 9 hay lớp 11). * Ví dụ 04: Tại sao không đựng dung dịch HF trong bình đựng bằng thủy tinh? Dung dich HF, tuy là axit yếu nhưng có tính chất đặc biệt là ăn mòn được thuỷ tinh. Do thành phần của thuỷ tinh chính là SiO 2, khi cho dung dịch HF vào thì có phản ứng: SiO2  4HF  SiF4  2H 2O

Áp dụng: Đây là vấn đề bắt buộc trong quá trình dạy về Flo và tính chất của dung dịch HF (lớp 10), giúp học sinh giải đáp được bài tập, mà trong thực tiễn tránh đựng dung dịch HF trong bình thuỷ tinh khi gặp. * Ví dụ 05: Làm thế nào để khắc được thuỷ tinh? Muồn khắc thuỷ tinh, người ta nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng chảy, lấy ra cho nguội, dùng vật nhọn tạo hình, chữ … cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất đi, rồi nhỏ dung dịch HF vào thuỷ tinh sẽ bị ăn mòn ở những nơi đã bị cạo đi lớp sáp. SiO2  4HF  SiF4  2H 2O Nếu không có dung dịch HF, ta có thay bằng dung dịch H2SO4 đặc và bột CaF2 (màu trắng). Nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng chảy, lấy ra cho nguội, dùng vật nhọn tạo hình, chữ … cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất đi, rồi rắc bột CaF 2 vào chổ

GV: Bùi Xuân Đông

6

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học cần khắc, cho thêm H2SO4 đặc vào và lấy tấm kính khác hoặc bìa cứng đặt lên trên khu vực khắc, sau 1 thời gian thuỷ tinh cũng sẽ bị ăm mòn những nơi cạo lớp sáp. CaF2  2H 2 SO4  Ca( HSO4 )2  2HF (dùng bìa cứng che) Do: SiO2  4HF  SiF4  2H 2O

Áp dụng: Đây là vấn đề thực tế với những gia đình, xí nghiệp kinh doanh và sản xuất thuỷ tinh . Không những cung cấp cho học sinh phương pháp khắc thuỷ tinh mà còn giải thích hiện tượng đó. Giúp học sinh sẽ nhớ đến bài học khi gặp vấn đề này. Thậm chí đây là cơ sở cho việc học nghề, khơi dậy niềm đam mê học tập và khám phá, càng tốt hơn nếu học sinh được tiến hành thí nghiệm. Giáo viên có thể đề cập đến trong bài giảng về Flo, dung dịch HF hoặc trong tiết thực hành (ở lớp 10). * Ví dụ 06: Vì sao lại không dùng xăng pha chì nữa? Xăng pha chì là thêm Tetraetyl chì có tác dụng tiết kiệm 30% xăng dầu khi sử dụng. Nhưng khí cháy trong động cơ, chì oxit bám vào các ống xả, thành xi lanh nên thực tế xăng còn hoà tan thêm vào Dibrom etan thì chì oxit sẽ bị chuyển thành Chì bromua (PbBr2), dễ bay hơi, thoát ra khỏi xi lanh, ống xả, thải vào không khí làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vì chì sẽ ở trong môi trường khí, tồn tại trong thực vật, động vật nên khi tiếp xúc với khí thải, động thực vật bị bệnh sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ con người. Ngoài ra hơi Brom bay ra gây nguy hiểm tới đường hô hấp, làm bỏng da. Hiện nay, nước ta đã không sử dụng xăng pha chì. Áp dụng: Hiện nay, nước ta không còn sử dụng xăng pha chì nữa, nhưng không ít một bộ phận học sinh và nhân dân không hiểu vì sao. Nên thông qua bài học liên quan, giáo viên có thể làm rõ tại sao. Vấn đề này có thể xen trong tiết dạy về dầu mỏ (ở lớp 9 hoặc lớp 11). * Ví dụ 07: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nước chảy đá mòn”, câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào? Trong đá thông thường chủ yếu là CaCO3 nên trong nước sẽ tồn tại phương trình điện ly: CaCO3

Ca2  CO32 (*)

Khi nước chảy sẽ cuốn theo các ion Ca2 , CO32 , theo nguyên lý chuyển dịch cân bằng hoá học thì cân bằng (*) chuyển dịch theo phía chống lại sự giảm nồng độ Ca2 , CO32 (chiều thuận) nên theo thời gian nước chảy qua đá sẽ mòn dần.

GV: Bùi Xuân Đông

7

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học Có thể giải thích bổ sung thêm nguyên nhân khác: Vì trong nước có lẫn khí CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng: CaCO3  CO2  H 2O  Ca  HCO3 2 . Khi nước chảy sẽ cuốn Ca(HCO3)2 trôi theo, qua thời gian đá sẽ bị mòn dần. Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy ở những phiến đá ở những dòng chảy đi qua. Nếu không để ý, trong xây dựng sẽ có ảnh hưởng không ít. Góp phần hiểu được dụng ý của khoa học của câu tục ngữ, làm cho hoá học trở nên gần gủi, có hồn văn hơn. Giáo viên có thể xen vấn đề này trong khi dạy đến phần về muối CaCO3 (ở lớp 9, lớp 11 hay lớp 12). * Ví dụ 08: Cao dao Việt Nam có câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên” Câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào? Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này. Do trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia lửa điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động: 3000 C N2  O2   2 NO o

Sau đó:

2 NO  O2  2 NO2

Khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa: 4 NO2  O2  2H 2O  4HNO3 HNO3  H   NO3

Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 − 7 kg N cho mỗi mẫu đất. Ngày nay, người ta đã điều chế Ure [(NH2)2CO] từ không khí để chủ động bón cho cây trồng. Trong nền nông nghiệp hiện đại cần phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ của nghành công nghiệp hoá chất “hướng về không khí đòi lương thực” là càng lớn. Áp dụng: Đây là một câu ca dao mang một ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ trong đời sống. Vấn đề này có thể xen vào trong tiết dạy phân đạm (ở lớp 9 hay lớp 11). Tạo cho học sinh khu vực làm nông nghiệp có thể tiện kiểm nghiệm trong đời sống, tự quan sát. * Ví dụ 09: Hiện tượng tạo hang động và thạch nhũ với những hình dạng phong phú đa dạng như thế nào? Trong đá thông thường chủ yếu là CaCO3, khi trời mưa, trong không khí có CO2 tạo môi trường axit làm tan được đá vôi, những giọt nước mưa rơi xuống như vô vàn mũi dao nhọn, sắc khắc vào đá những đường nét khác nhau GV: Bùi Xuân Đông

8

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm

Kinh nghiệm dạy học CaCO3  CO2  H 2O  Ca( HCO3 )2

Và xuất hiện quá trình điện ly: Ca( HCO3 )2  Ca 2  2HCO3

Ca 2  CO33

CaCO3

– Theo thời gian dần tạo ra các hang động khi nước có Ca(HCO3)2 ở đất đá do áp suất nhiệt độ đột nhiên thấp nên khi giọt nước nhỏ từ từ có tồn tại phương trình: Ca( HCO3 )2

CaCO3   CO2   H 2O

Như vậy lớp CaCO3 lưu lại ngày càng nhiều, dày gọi đó là nhũ có màu, hình thù đa dạng. Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy trong các hang động núi đá. Giáo viên có thể xen vấn đề này trong khi dạy đến phần về các muối cacbonat (ở lớp 11) hay hợp chất của Canxi (ở lớp 12). * Ví dụ 10: Tại sao nước máy lại có mùi clo? Khi sục vào nước một lượng nhỏ Clo vào nước có tác dụng sát trùng do clo tan 1 phần (gây mùi) và phản ứng 1 phần với nước: H 2O  Cl2

HCl  HClO

Hợp chất HClO không bền có tính oxi hoá mạnh: HClO

HCl + O

Oxi nguyên tử có khả năng diệt khuẩn. Áp dụng: Vấn đề này đang đang được sử dụng làm sạch nước hiện nay trong các nhà máy nước cung cấp nước trong thành phố, thị xã, thị trấn… Giúp học sinh hiểu và giải toả thắc mắc, hiểu được vai trò của hoá học và học sinh có thể kiểm nghiệm qua thực tế. Giáo viên có thể xen vào bài giảng về Clo (ở lớp 9, lớp 10). * Ví dụ 11: Tại sao sau những cơn mưa có sấm chớp, đường xá, khu phố, rừng cây … bầu trời xanh cũng như sạch quang, mát mẻ, trong lành hơn? Do trong không khí có 20% O2 nên khi có sấm chớp tạo điều kiện: 3O2

2O3

Tạo ra một lượng nhỏ O3, O3 có khả năng sát trùng: O3 O2  O (sát trùng) Nên ngoài những hạt mưa cuốn theo bụi thì O3 là tác nhân làm môi trường sạch sẽ và cảm giác tươi, mát. Áp dụng: Vấn đề này giáo viên nên đề cập trong bài giảng về Ozon (ở lớp 10), giúp học sinh kiểm nghiệm trong cuộc sống mà đôi khi có nhiều học sinh không chú ý đến. Đây là một hiện tượng tự nhiên không xa lạ với học sinh. GV: Bùi Xuân Đông

9

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học * Ví dụ 12: Ma trơi là gì? Ma trơi thường gặp ở đâu? “Ma trơi” chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất, trong cơ thể (xương động vật) có chứa một hàm lượng P khi chết phân huỷ tạo 1 phần thành khí PH3 (Photphin) khi có lẫn một chút khí P2H4 (Diphotphin), khí PH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu khí bay trong không khí P2 H 4 2PH3  4O2   P2O5  3H 2O

Điều trùng lặp ngẫu nhiên là: Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa địa càng tăng nên tính chất kịch tính. Áp dụng: Vấn đề này phải được đề cập trong bài giảng về P để giải thích hiện tượng trong đời sống “Ma trơi”. Tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm cho cuộc sống lành mạnh. Hiện tượng này giáo viên có thể đề cập trong bài về P (ở lớp 11). * Ví dụ 13: Tại sao phải ăn muối có Iod? Ăn muối để bổ sung hàm lượng Iod cho cơ thể, trong cơ thể một người trưởng thành có chứa 20 – 50mg Iod chủ yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu Iod trong tuyến này thì cơ thể sẽ bị một số bệnh: Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến đần độn, phụ nữ thiếu Iod dẫn dến vô sinh, có biến chứng sau khi sinh. Mỗi ngày phải đảm bảo cho cơ thể tiếp xúc với < 150 mcrogam Iod. Áp dụng: Điều này đề cập trong bài giảng về Iod (ở lớp 10) giúp học sinh hiểu được vai trò tại sao toàn dân phải ăn muối Iod. Giúp các em tự nhận thấy tầm quan trọng của muối Iod, tăng tính hiểu biết hơn. * Ví dụ 14: Tại sao khi nấu, xào thịt, đậu phụ không nên cho muối ăn (chứa NaCl) vào quá sớm? Vì trong đậu, thịt chứa protein (protit), vốn có tính keo khi gặp những chất điện ly mạnh, sẽ bị ngưng tụ thành những “óc đậu” khi nấu, xào nếu như cho muối ăn vào sớm, gây khó khăn cho thẩm thấu vào đậu, thịt và bị đông tụ cứng lại không có lợi cho tiêu hoá… Áp dụng: Giáo viên có thể xen vào bài giảng của phân về protit (ở lớp 12). Đây cũng là vấn đề thiết thực bắt găp trong cuộc sống và phục vụ thiết yếu trong việc chế biến thực phẩm. * Ví dụ 15: Tại sao khi nấu nƣớc giếng ở một số vùng lại có lớp cặn ở dƣới đáy ấm? Cách tẩy lớp cặn này? Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, là nước có chứa muối Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2. Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng hoá học :

GV: Bùi Xuân Đông

10

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm

Kinh nghiệm dạy học

t Ca  HCO3 2   2CaCO3   CO2   H 2O o

t Mg  HCO3 2   2MgCO3   CO2   H 2O o

CaCO3, MgCO3 sinh ra đóng cặn. Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm (CH3COOH 5%) và rượu, đun sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo đặc chỉ hớt ra và lau mạnh là sạch. Áp dụng: Giáo viên có thể xen vào trong bài giảng về nước cứng (ở lớp 9 hay lớp 11). Mục đích cung cấp mẹo vặt trong đời sống cũng góp phần cho học sinh hiểu bản chất của vế đề có trong đời sống hàng ngày, học sinh có thể ứng dụng trong đời gia đình mình, tạo sự hưng phấn trong học tập. Đó là một thí nghiệm tự làm được. * Ví dụ 16: Vì sao nước biển lại mặn? Các con sông, suối, … Các dòng nước trên lục địa đều chảy về biển, đại dương và hoà tan mọi vật thể có thể hoà tan. Do quá trình bay hơi, các nguyên tố, hợp chất tụ tập trong nước biển ngày càng nhiều theo thời gian, vị mặn của nước biển chủ yếu do NaCl gây nên. Trong nước biển có khoảng hơn 80 nguyên tố, các halogen có nhiều trong nước biển, nguyên tố Br có trong nước biển tới 99% tổng lượng tồn tại và chiếm 0,065% trong nước biển. Áp dụng: Điều này là hiển nhiên thấy trong đời sống, bất kể ai cũng có thể biết hiện tượng này, vấn đề này có thể đưa vào trong trong khi dạy về bài: halogen (ở lớp 10), clo (ở lớp 9 hay lớp 10) với mục đích giải thích nước biển lại mặn? Có thể đặt ra câu hỏi: Vì sao nước biển lại mặn? Căn cứ vào sự trả lời của học sinh giáo viên thông báo lại chính xác hơn. * Ví dụ 17: Vải khác nhau có giá trị khác nhau nên phân biệt nhƣ thế nào? Căn cứ vào bản chất của các chất liệu làm nên vải, ta có thể nhận biết cách đơn giản sau: 1/ Nếu vải làm bằng sợi bông: Khi đốt sợi vải cháy nhanh, ngọn lửa màu vàng, có mùi như đốt giấy và tro có màu xám đậm. 2/ Nếu vải làm bằng sợi tơ tằm: Khi đốt sợi vải cháy chậm hơn vải sợi bông, có mùi khét như đốt tóc, sợi tơ co cục, màu nâu đen, lấy tay bóp thì tan. 3/ Nếu vải làm bằng lông cừu (len lông cừu): Khi đốt bắt cháy không nhanh, bốc khói, có mùi khét như đốt tóc và tạo thành những bọt phồng, rồi vón cục có màu đen hơi óng ánh, giòn, bóp tan ngay. 4/ Nếu vải làm bằng sợi viscozơ: Khi đốt sợi vải cháy nhanh, ngọn lửa màu vàng, có mùi như đốt giấy và tro có màu xám nhưng rất ít. GV: Bùi Xuân Đông

11

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học 5/ Nếu vải làm bằng sợi axetat: Khi đốt sợi vải bắt cháy chậm ,thành giọt dẻo màu nâu đậm, có hoa lửa, không bốc cháy thành ngọn lửa, sau đó kết thành cục màu đen, dể bóp nát. 6/ Nếu vải làm bằng sợi poliamit (nilon): Khi đốt sợi vải không cháy ngọn lửa mà co vón lại và cháy thành từng giọt dẻo màu trắng, có mùi của rau cần, khi nguội thì biến thành cục cứng có màu nâu nhạt, bóp khó nát Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vào phần nhận biết của bài dạy liên quan (ở lớp 9 hoặc lớp12), mặt khác cũng có tác dụng cung cấp cho học sinh phương pháp trong đời sống nhận biết các chất liệu vải phụ vụ cho mục đích sử dụng, điều này cũng rất thực tiễn. * Ví dụ 18: Sherlock Homes đã phát hiện ra cách lấy dấu vân tay của tội phạm lƣu trên các vật ở hiện trƣờng nhƣ thế nào chỉ sau một vài phút thí nghiệm? Lấy một tờ giấy sạch, ấn một ngón tay vào mặt giấy rồi nhấc ra sau đó đem phần giấy có dấu vân tay đặt trên miệng ống nghiệm có đựng cồn iod, dùng đèn cồn để đun nóng phần đáy ống nghiệm. Đợi cho khí màu tím thoát ra (I2) từ ống nghiệm thấy phần giấy có vân tay dần hiện lên rõ nét (màu nâu). Nếu bạn cất tờ giấy có vân tay đi mấy tháng sau làm tương tự cũng vẫn có hiện tượng như trên. Do đầu ngón tay có chất béo, dầu khoáng, mồ hôi, khi ấn tay vào giấy sẽ lưu lại một phần trên giấy mặc dù mắt thường không nhận ra. Các chất này khi gặp hơi Iod cho màu nâu (chú ý hơi Iod rất độc không được ngửi). Áp dụng: Đây là câu chuyện nêu lên ứng dụng của hoá học trong đời sống, giúp học sinh hiểu biết nhiều hơn. Giáo viên có thể xen vào trong các bài giảng về chất béo (ở lớp 9 hay lớp 12), bài Iod (ở lớp 10) * Ví dụ 19: Hoá chất trong cơ thể của con người như thế nào? Các nhà khoa học đã tính được rằng:  Lượng nước trong cơ thể của mỗi người chúng ta chỉ đủ giặt một chiếc áo sơ mi.  Lượng Fe đủ để làm một cái đinh 5 phân.  Lượng đường chỉ đủ cho làm một nữa cái bánh ngọt nhỏ.  Lượng vôi trong toàn bộ xương của cơ thể đủ để xây một cái chuồng gà con.  Lượng mỡ dùng nấu được 7 bánh xà phòng.  Lượng P đủ để sản xuất 2200 đầu que diêm.  Lượng S đủ để giết chết 1 con bọ chét. GV: Bùi Xuân Đông

12

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học  Cộng cả lại kể các các nguyên tố khác như Mg, Cu, K… Theo các nhà bác học tính ra thì với một người nặng 65kg, giá trị của chúng chỉ đáng giá chưa tới 3$. Áp dụng: Đây là tình huống có chút khôi hài nhưng có thể giúp học sinh nắm được cơ bản thành phần nguyên tố trong cơ thể con người có thể đưa vào bài giảng về thành phần nguyên tố nhằm làm rõ thêm về quan điểm duy vật (ở lớp 9 hay lớp 11). * Ví dụ 20: Vì sao tay một ngƣời dính cồn iod cầm bánh mì thì có chấm xanh trên bánh? Do cồn iod là hỗn hợp tan của Iod và Ancol etylic (C2H5OH), Iod gặp tinh bột tạo ra phức màu xanh dương. Điều này cũng có thể giải thích khi bôi cồn iod lên phía trong quả chuối xanh lại cũng có hiện tượng tương tự (do trong chuối xanh có tinh bột (C 6H10O5)n). Nhưng nếu là chuối chín thì không thấy hiện tượng này (do chuối chín chuyển tinh bột thành đường Glucozo (C6H12O6). Người ta sử dụng tinh bột để nhận biết iod và ngược lại. Áp dụng: Điều này được đề cập khi dạy về Iod (ở lớp 10) và Tinh bột (ở lớp 12), giúp học sinh có thể giải thích 1 hiện tượng trong đời sống vì thực tế cồn iod có rất đại trà trong đời sống đặc biệt là trị ghẻ thú y, cung cấp cách nhận biết tinh bột. * Ví dụ 21: Dấm ăn là gì? Có ích gì? Trong dấm ăn có vị chua vì có 3 - 5% là Axit axetic (CH3COOH). Dấm ăn có tác dụng tạo vị chua và có tác dụng làm cho cơ thể có cảm giác muốn ăn và tiêu hoá tốt, có khả năng tiêu độc, sát khuẩn. Áp dụng: Dấm ăn là một thứ gia vị rất gần gũi trong đời sống, giáo viên có thể xen vào trong bài giảng về axit axetic (ở lớp 9 hay lớp 12) để học sinh liên hệ trong thực tế, hiểu biết về vai trò của dấm ăn đối với con người. * Ví dụ 22: Vì sao có thể đánh cảm bằng dây bạc và khi đó dây bạc bị hóa đen? Để dây bạc trắng sáng trở lại, ngƣời ta sẽ ngâm vào nƣớc tiểu? Người bị cảm trong cơ thể thường sinh ra những hợp chất dạng sunfua (S2−) vô cơ hay hữu cơ đều có tính độc. Khi đánh cảm bằng bạc, do S có ái lực mạnh với Ag nên xảy ra phản ứng tạo Bạc sunfua (Ag2S) kết tủa màu đen. Do đó loại được chất độc ra khỏi cơ thể và cũng làm cho dây bạc chuyển thành màu đen. Ag  S   Ag2 S 

Trong nước tiểu có NH3, khi ngâm dây bạc vào thì sẽ xảy ra phản ứng: GV: Bùi Xuân Đông

13

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm

Kinh nghiệm dạy học 

Ag2 S  4 NH 3  2  Ag  NH 3 2   S 2

Nên Ag2S bị hoà tan, bề mặt dây bạc lại trở nên sáng bóng. Áp dụng: Đây là những ứng dụng rất hay của bạc. Giáo viên có thể đưa những vấn đề này vào bài về kim loại (ở lớp 9 hay lớp 12). * Ví dụ 23: Tại sao khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vị ngọt? Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của người có các enzim. Khi nhai kỹ trộn đều, tuyến nước bọt làm tăng cơ hội chuyển hoá một lượng tinh bột theo phản ứng thuỷ phân thành mantozơ, glucozơ gây ngọt theo sơ đồ: Amilaza , H O Mantaza , H O  C12 H 22O11   C6 H12O6  C6 H10O5 n  2

TB

2

Mantozo

Glucozo

Áp dụng: Vấn đề này có thể đề cập đến trong bài dạy về tinh bột (ở lớp 9, lớp 12), cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản của sự chuyển hoá tinh bột trong khi ăn. Đó cũng là một hiện tượng tự nhiên đều cảm nhận được trong các bữa cơm của chúng ta. * Ví dụ 24: Vì sao không nên ăn hoa quả ngay sau bữa ăn? Trái cây có loại đường đơn là monosaccarit và một số loại axit sẽ kết hợp với axit trong dạ dày tạo ra Axit tactaric, Axit citric làm cho dạ dày đầy hơi. Một số loại hoa quả có hàm lượng Tanin và Pectin cao, chúng sẽ kết hợp với dịch vị, chất xơ và protein trong thức ăn, dễ tạo thành những hạt rắn, khó tiêu hóa. Những hạt này hình thành sỏi ở dạ dày, ruột. Nên ăn hoa quả sau bữa ăn khoảng 1−3 giờ. Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài axit cacboxylic (lớp 9, lớp 12) * Ví dụ 25: Vì sao vắt chanh vào cốc sữa đặc có đƣờng sẽ thấy có kết tủa? Trong sữa có thành phần protein gọi là Cazein. Khi vắt chanh vào sữa làm tăng độ chua, tức làm giảm pH của dung dịch sữa tới pH đúng với điểm đẳng điện của cazein thì chất này sẽ kết tủa. Khi làm phomat, người ta cũng tách Cazein theo nguyên tắc tương tự và cho lên men tiếp. Áp dụng: Giáo viên có thể đưa các vấn đề thực tế này vào bài axit cacboxylic (ở lớp 9 hay lớp 12). * Ví dụ 26: Làm thế nào để biết dƣới giếng có khí độc (CO) hoặc nhiều khí thiên nhiên (CH4…) và không có oxi, để tránh khi xuống giếng bị ngạt?

GV: Bùi Xuân Đông

14

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học Trong các giếng đào đặc biệt nhiều ở vùng đồng bằng thường có khí độc CO, CH4… và không có O2. Mà người dân chúng ta hay có thói quen xuống giếng thau giếng hoặc vì lấy gầu múc nước… Đã có nhiều trường hợp bị tử vong một lúc nhiều mạng người vì gặp phải giếng có khí độc (CO) gây đông máu, CH4… và không có O2 gây ngạt trong tíc tắc, làm người xuống cứu cũng chết. Để tránh, tốt nhất không nên xuống các giếng đào, nếu có xuống phải đeo bình oxi. Còn muốn biết có khí độc(CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên(CH4…) và không có O2 chỉ cần lấy dây buộc một con gà, vịt … thả xuống nếu nó chết thì chứng tỏ có khí độc. Áp dụng: Đây là một hiện tượng hay xảy ra, giáo viên nên đưa vào bài giảng để nhắc nhở học sinh, cộng đồng …tránh những cái chết thương tâm. Vấn đề này có thể xen vào bài dạy Cacbon hay Metan (ở lớp 9 hay lớp 11). * Ví dụ 27: Gƣơng soi có lịch sử nhƣ thế nào? Thời xa khi muốn soi mình phải soi qua mặt nước, khi đến thời đồ đồng thau thì bằng gương làm bằng đồng nhưng nhanh ố, sau dần chuyển sang thuỷ ngân tráng sau tấm kính phẳng, nhưng thuỷ ngân gây ngộ độc cho người sản xuất. Dần dần và ngày nay người ta đã thay thế bằng bạc tráng sau tấm kính nhờ phản ứng anđehit (R−CHO) với dung dịch AgNO3/NH3 hay thay andehit bằng glucozơ. RCHO  2 AgNO3  3NH3  H 2O  RCOONH 4  2 Ag   NH 4 NO3

Ag tạo ra bám chặt vào gương, người ta quét lên mặt sau chiếc gương một lớp sơn dầu bảo vệ. Phích nước cũng chế tạo kiểu này. Áp dụng: Đây là một ứng dụng của hợp chất có chức andehit vào đời sống. Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong các tiết dạy về andehit, glucozơ…(ở lớp 11 hay lớp 12). Để học sinh hiểu phần nào về sự tạo gương, ruột phích mà hàng ngày ai cũng bắt gặp. * Ví dụ 28: Vì sao phèn chua có thể làm trong nƣớc? Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm nước: [K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O] Phèn chua không độc, có vị chua chát, ít tan trong nước lạnh nhưng tan nhiều trong nước nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ bị thủy phân và tạo thành Al(OH)3 ở dạng kết tủa keo lơ lững trong nước Al2 ( SO4 )3  2 Al 3  3SO42 Al 3  H 2O

AlOH 2  H  Al  OH 2  H  

AlOH 2  H 2O Al  OH 2  H 2O 

Al2 ( SO4 )3  3H 2O

GV: Bùi Xuân Đông

Al  OH 3   H  2 Al (OH )3  3H 2 SO4

15

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học Chính những hạt Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lững ở trong nước này đã kết dính với các hạt bụi bẩn, các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng hơn và lắng xuống. Vì vậy mà nước trở nên trong hơn. Áp dụng: Đây là một ứng dụng quan trọng của phèn chua trong đời sống. Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong bài dạy về muối sunfat hoặc về các hợp chất quan trọng của nhôm (ở lớp 10 hay lớp 12). * Ví dụ 29: Hàn the là chất gì? Hàn the có thành phần chính là chất Natri tetraborat (hay là Borac), ở dạng tinh thể ngậm nước. Tinh thể trong suốt, tan nhiều trong nước nóng, không tan trong cồn 90o. Trước đây, người ta thường dùng hàn the làm chất phụ gia cho vào giò lụa, bánh phở, bánh cuốn, … để cho những thứ này khi ăn sẽ cảm thấy dai và giòn. Ngay từ năm 1985, Tổ chức Y tế thế giới đã cấm dùng hàn the làm chất phụ gia cho thực phẩm vì nó độc, có thể gây sốc, trụy tim, co giật và hôn mê. Áp dụng: Hàn the là chất được dùng trong buôn bán nhưng đã bị cấm sử dụng từ lâu. Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong bài dạy về một số hợp chất quan trọng của Natri (ở lớp 12). * Ví dụ 30: Cloramin là chất gì mà sát trùng đƣợc nguồn nƣớc? Cloramin là chất NH2Cl và NHCl2. Khi hoà tan cloramin vào nước sẽ giải phóng cho ra khí Clo. Clo tác dụng với nước tạo ra HClO. H 2O  Cl2

HCl  HClO

HClO có tính oxy hóa rất mạnh nên phá hoại hoạt tính một số enzim trong vi sinh vật, làm cho vi sinh vật chết. Cloramin không gây độc hại cho người dùng nước đã được khử trùng bằng chất này. Áp dụng: Cloramin là chất được sử dụng nhiều để làm sạch nước trong những vùng lụt bão. Giáo viên có thể đề cập đến chất này trong bài Clo (ở lớp 9, lớp 10). * Ví dụ 31: Teflon là chất gì? Teflon có tên thay thế là: Poli(tetrafloetilen) [(−CF2−CF2−)n]. Đó là loại polime nhiệt dẻo, có tính bền cao với các dung môi và hóa chất. Nó độ bền nhiệt cao, có độ bền kéo cao và có hệ số ma sát rất nhỏ. Teflon bền với môi trường hơn cả Au và Pt, không dẫn điện. Do có các đặc tính quý đó, teflon được dùng để chế tạo những chi tiết máy dễ bị mài mòn mà không phải bôi mỡ (vì độ ma sát nhỏ), vỏ cách điện, tráng phủ lên chảo, nồi,… để chống dính. GV: Bùi Xuân Đông

16

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài polime (ở lớp 9 hay lớp 12) * Ví dụ 32: Thuốc chuột là chất gì? Nếu sau khi ăn thuốc mà không có nƣớc uống thì chuột chết mau hơn hay lâu hơn? Thuốc chuột có thành phần chính là Zn3P2. Sau khi ăn, Zn3P2 bị thủy phân rất mạnh, tạo thành khí PH3 (photphin) rất độc: Zn3 P2  6H 2O  3Zn(OH )2  2PH3 

Làm cho hàm lượng nước trong cơ thể chuột giảm; nó khát và đi tìm nước. Chính PH3 đã giết chết chuột. Càng nhiều nước đưa vào cơ thể chuột → PH3 thoát ra càng nhiều → chuột càng nhanh chết. Nếu không có nước, chuột càng lâu chết hơn. Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng ứng dụng này trong bài Photpho (lớp 11). * Ví dụ 33: Vì sao than đá chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy? Do than đá tác dụng với khí O2 trong không khí tạo ra khí CO2, phản ứng tỏa nhiệt. C  O2  CO2 

H  0

Nhiệt tỏa ra được tích góp dần dần, khi đạt đến nhiệt độ cháy của than thì than tự bốc cháy. Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào bài C (lớp 9, lớp 11) hoặc bài O2 (lớp 8, lớp 10). * Ví dụ 34: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau? Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit fomic (HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau. 2HCOOH  Ca(OH )2   HCOO 2 Ca  2H 2O

Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài axit cacboxylic (ở lớp 9 hay lớp 11) hoặc bài một số hợp chất quan trọng của canxi (ở lớp 12). * Ví dụ 35: Vì sao ban đêm không nên để nhiều cây xanh trong nhà? Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình quang hợp, hấp thụ CO2 và giải phóng khí O2. as 6nCO2  5nH 2O  (C6 H10O5 )n  6nO2  clorophin Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang hợp, chỉ có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O 2 và thải ra khí CO2 làm cho phòng thiếu khí O2 và quá nhiều khí CO2. Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài tinh bột (ở lớp 9 hay lớp 12). GV: Bùi Xuân Đông

17

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học * Ví dụ 36: Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết? Trong nông nghiệp, đất đèn dùng để làm gì? Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua (CaC2), khi tác dụng với nước sinh ra khí axetilen và canxi hidroxit. CaC2  2H 2O  C2 H 2  Ca(OH )2 (H  0)

Axetilen có thể tác dụng với nước tạo ra andehit axetic (CH3CHO). Các chất này làm tổn thương đến hoạt động hô hấp của cá vì vậy có thể làm chết cá. Trong nông nghiệp, từ lâu người ta đã dùng đất đèn để làm kích thích quả xanh mau chín và chín đồng loạt ở các kho, thường dùng để dấm dứa, chuối, cà chua,… vào dịp cuối mùa đông, đầu mùa xuân. Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài Axetilen (ở lớp 9, lớp 11) * Ví dụ 37: Vì sao muối NaHCO3 đƣợc dùng để chế thuốc đau dạ dày? Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO 3 dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản ứng: NaHCO3  HCl  NaCl  CO2  H 2O

Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng kiến thức này vào bài HCl (ở lớp 10), bài một số hợp chất quan trọng của Natri (ở lớp 12). * Ví dụ 38: Vì sao trong công nghiệp thực phẩm, muối (NH4)2CO3 đƣợc dùng làm bột nở? NH4)2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm vào bột mì, lúc nướng bánh thì (NH4)2CO3 sẽ bị phân hủy thành các chất khí và hơi nên làm cho bánh xốp và nở hơn. t ( NH 4 )2 CO3   2 NH3  CO2   H 2O  0

Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài muối amoni (ở lớp 11) hoặc muối cacbonat (ở lớp 9, lớp 11). * Ví dụ 39: Vì sao khi cơm khê ngƣời ta thƣờng cho vào nồi cơm một mẩu than củi? Do than củi xốp có tính hấp phụ, nên hấp phụ được mùi khét của cơm làm cho cơm đỡ mùi khê. Áp dụng: Đây là tính chất vật lí quan trọng của C, nó có khả năng hấp phụ màu và mùi. Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào trong bài cacbon (ở lớp 9, lớp 11).

GV: Bùi Xuân Đông

18

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học * Ví dụ 40: Vì sao nƣớc rau muống đang xanh, khi vắt chanh vào thì chuyển sang màu đỏ? Có một số chất hoá học được gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu của dung dịch thay đổi khi độ axit thay đổi. Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất chỉ thị này. Trong chanh có 7% axit citric. Vắt chanh vào nước rau làm thay đổi độ axit, do đó làm thay đổi màu nước rau. Khi chưa vắt chanh, nước rau muống có màu xanh lét là chứa chất kiềm canxi. Áp dụng: Giáo viên có thể đưa các vấn đề thực tế này vào bài axit cacboxylic (ở lớp 9, lớp 12). * Ví dụ 41: Vì sao sau khi ăn trái cây thì không nên đánh răng ngay? Các nhà khoa học khuyến cáo: Ai ăn trái cây thì phải một giờ sau mới được đánh răng. Tại sao vậy? Vì chất chua (axit hữu cơ) trong trái cây sẽ kết hợp với những thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chải sẽ tấn công các kẽ răng và gây tổn thương lợi. Bởi vậy phải đợi đến khi lượng nước bọt trung hòa axit trong trái cây, nhất là táo, cam, nho, chanh. Ta đã biết thức ăn vào dạ dày phải lưu giữ lại từ 1−2 giờ. Nếu sau bữa ăn, ta ăn ngay trái cây sẽ làm tăng thêm sự lưu trệ trong dạ dày. Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài axit cacboxylic (ở lớp 9, lớp 12) * Ví dụ 42: Vì sao các đồ vật bằng bạc để lâu ngày thƣờng bị xám đen? Vì sao dùng đồ bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi? Do bạc tác dụng với khí O2 và H2S có trong không khí tạo ra bạc sunfua (Ag2S) màu đen. 4 Ag  O2  2H 2 S  2 Ag2 S  2H 2O

Khi bạc sunfua gặp nước sẽ có một lượng rất nhỏ đi vào nước thành ion Ag . Ion Ag+ có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh, chỉ cần 1/5 tỉ gam bạc trong 1 lít nước cũng đủ diệt vi khuẩn. Không cho vi khuẩn phát triển nên giữ cho thức ăn lâu bị ôi thiu. Áp dụng: Đây là những ứng dụng rất hay của kim loại bạc. giáo viên có thể đưa những vấn đề này vào bài về kim loại (ở lớp 9, lớp 12). * Ví dụ 43: Làm cá bớt tanh bằng phƣơng pháp nào? Khi nấu canh cá thì cho thêm chất chua (me, giấm,…) để làm giảm mùi tanh của cá. Chất chua (axit lactic có trong nước dưa, me, axit axetic có trong giấm, axit citric có trong chanh…) nâng cao hương vị và hạn chế mùi tanh của cá. +

GV: Bùi Xuân Đông

19

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học Trong chất tanh của cá, có chứa hỗn hợp các amin [(CH3)2NH và (CH3)3N], có tính bazơ yếu. Các chất chua dùng để nấu canh cá đều là axit hữu cơ, chúng có phản ứng với các amin tạo thành muối. Do đó làm giảm hoặc làm mất vị tanh của cá.   Ví dụ: CH3COOH  (CH3 )2 NH  (CH3 )2 NH 2  CH3COO Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Amin (ở lớp 12) * Ví dụ 44: Vài kỷ lục trong thế giới kim loại  Kim loại có khối lượng riêng lớn nhất: Osmi (Os) với d = 22,7g/cm 3.  Kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao nhất: Vonfram (W) với tnc = 34100C.  Kim loại nhẹ nhất: Liti (Li) với d = 0,53g/cm3.  Kim loại dẻo nhất: Vàng (Au)  Kim loại có nhiệt độ nóng chảy thấp nhất: thủy ngân (Hg) với t nc = −390C.  Kim loại dẫn điện, dẫn nhiệt tốt nhất: Bạc (Ag)  Kim loại được con người sử dụng làm công cụ sớm nhất: Đồng (Cu)  Kim loại có trữ lượng lớn nhất: Nhôm (Al), chiếm 7% về khối lượng vỏ trái đất. Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài Đại cương về kim loại (ở lớp 9, lớp 12). * Ví dụ 45: Tại sao khi đi gần các sông, hồ bẩn vào ngày nắng nóng, ngƣời ta thƣờng ngửi thấy mùi khai? Khi nước sông, hồ bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ giàu chất đạm, như: nước tiểu, phân hữu cơ, rác thải hữu cơ, … lượng Ure trong các chất hữu cơ sinh ra nhiều. Dưới tác dụng của men ureaza của các vi sinh vật, ure bị phân hủy thành CO2 và NH3. ( NH 2 )2 CO  2H 2O  CO2  2 NH3

Lượng NH3 sinh ra hoà tan trong nước dưới dạng một cân bằng động: NH3  H 2O

NH 4  OH  (H  0)

Như vậy, khi trời nắng (nhiệt độ tăng), cân bằng trên sẽ dịch chuyển theo chiều nghịch, tức là NH3 sinh ra do phản ứng phân hủy ure không bị hoà tan trong nước mà bị tách ra, bay vào không khí làm cho không khí xung quanh sông, hồ có mùi khai khó chịu. Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào bài amoniac (ở lớp 11) hoặc bài cân bằng hoá học (ở lớp 10). * Ví dụ 46: Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không đƣợc dùng chổi quét mà nên rắc bột S lên trên? GV: Bùi Xuân Đông

20

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học Thủy ngân (Hg) là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân là một chất độc. Vì vậy khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét thì thủy ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi và làm cho quá trình thu gom khó khăn hơn. Ta phải dùng bột S rắc lên những chỗ có thủy ngân, vì S có thể tác dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi. Hg  S  HgS 

Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn. Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Lưu huỳnh (lớp 10), tính chất hóa học của kim loại (ở lớp 9 hay lớp 12) * Ví dụ 47: Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên? Khi nấu trứng thì lòng trắng trứng kết tủa lại? Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protit bằng nhiệt, gọi là sự đông tụ. Một số protit tan trong nước tạo thành dung dịch keo, khi đun nóng sẽ bị kết tủa. Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào bài protit (ở lớp 9 hay lớp 12) để giải thích hiện tượng thực tế này và học sinh có thể làm thí nghiệm tại nhà. * Ví dụ 48: Nhôm lại đƣợc dùng làm dây dẫn điện cao thế? Còn dây đồng lại đƣợc dùng làm dây dẫn điện trong nhà? Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là …… Do đó, nếu như dùng đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về mặt kinh tế. Còn trong nhà thì việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm. Vì vậy ở trong nhà thì ta dùng dây đẫn điện bằng đồng. Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Tính chất vật lý của kim loại (ở lớp 9, lớp 12) * Ví dụ 49: Vì sao để bảo vệ vỏ tàu biển bằng thép, ngƣời ta gắn các tấm kẽm vào phía ngoài vỏ tàu ở phần chìm trong nƣớc biển? Khi thép và kẽm cùng ở trong nước biển thì sẽ xuất hiện cặp pin hóa học và có sự ăn mòn điện hóa. Kẽm là cực âm, thép là cực dương và nước biển là dung dịch điện li. Trong quá trình ăn mòn điện hóa thì kẽm sẽ bị ăn mòn. Do đó, vỏ tàu biển được bảo vệ. Đây là phương pháp bảo vệ kim loại bằng phương pháp điện hóa. Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào trong bài dạy về sự ăn mòn kim loại (ở lớp 12). GV: Bùi Xuân Đông

21

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học * Ví dụ 50: Nhƣ thế nào là hiện tƣợng mù quang hóa? Hiện tƣợng này có tác hại gì đến sức khỏe của con ngƣời? Từ lâu, trong các nghiên cứu về môi trường, các nhà khoa học thế giới đã miêu tả một hiện tượng ô nhiễm không khí đặc biệt, dưới tên gọi smog - sƣơng khói (ghép hai từ tiếng Anh: fog - sương mù và smoke - khói). Theo đó, smog được định nghĩa là “lớp mù quang hóa gây ra bởi sự tương tác giửa bức xạ cực tím của mặt trời và bầu khí quyển bị ô nhiễm bởi các hydrocarbon và ôxít nitrogen thoát ra từ khí thải động cơ”. Sương mù quang hóa là một dạng ô nhiễm không khí sinh ra khi ánh sáng mặt trời tác dụng lên khí thải động cơ xe máy, khí thải công nghiệp, … để hình thành nên những vật chất như ozone, aldehit và peroxyacetylnitrate(PAN). Sương mù quang hóa xảy ra ở tầng đối lưu của khí quyển – nơi tập trung phần lớn các chất khí gây ô nhiễm: NOx, các hợp chất VOCs (Volatile Organic Compounds) … Dựa vào các nghiên cứu, người ta đã có thể kết luận rằng sƣơng mù quang hóa đƣợc tổng hợp từ NO, NO2, HNO3, CO, các nitrat hữu cơ(PAN), O3 và các chất oxy hóa quang hóa. Sương mù quang hóa làm giảm tầm nhìn, gây nên những tác động có hại đối với sức khỏe của con người, gây hại cho cây trồng và làm hao mòn nhiều lọai vật liệu. * Tác động lên sức khỏe của con ngƣời. Sương mù quang hóa được đặc trưng bởi hàm lượng O3 cao trong không khí. Nồng độ ozon thấp ở tầng không khí gần mặt đất có thể làm cay mắt, mũi và cổ họng. Khi sương mù tăng lên, nó có thể gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe nghiêm trọng hơn như:  Hen xuyễn, viêm phế quản, ho và tức ngực  Làm tăng sự nhạy cảm đối với các lây nhiễm về đường hô hấp  Làm giảm chức năng của phổi. Việc tiếp xúc với sương mù quang hóa trong thời gian dài thậm chí có thể gây tổn thương các mô phổi, gây ra sự sớm lão hóa ở phổi, và góp phần gây ra bệnh phổi mãn tính. Trẻ em, thanh niên và người lớn mà có chức năng phổi yếu được xem như những người có nguy cơ cao. Sương mù hình thành trong điều kiện khí hậu ở những nước hay thành phố có nền công nghiệp phát triển - tức ở đó không khí đã bị ô nhiễm nặng. Tuy nhiên, tồi tệ hơn trong thời tiết ấm và có ánh nắng khi mà dòng không khí bên trên đủ ấm cản trở sự lưu thông thẳng đứng. Nó đặc biệt phổ biến ở những vùng trũng được bao quanh bởi những đồi núi. Nó thường tồn tại trong những khoảng thời gian dài ở những thành phố có dân cư tập trung cao hay khu vực đô thị. Tác động lên thực vật và các lọai vật chất. Các cây trồng cũng như những loài thực vật nhạy cảm khác thì bị gây hại nhiều hơn là sức khỏe của con nguời ở nồng độ ozon thấp. Một vài lọai cây như GV: Bùi Xuân Đông 22 Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học thuốc lá, rau bina, cà chua và đậu đốm (pinto beans) là những lọai nhạy cảm với ozon. Những lá cây trong khu vực có sương mù quang hóa xuất hiện những đốm màu nâu trên bề mặt lá sau đó chuyển sang màu vàng. Lớp ozon ở tầng mặt đất có thể hủy họai lá cây, làm giảm sự phát triển, khả năng sinh sản và quá trình sinh sản. Nó có thể gây ra sự mất khả năng tự vệ trước các lọai côn trùng cũng như bệnh tật và thậm chí còn gây chết cây. Đối với các loại vật liệu: ozon dễ dàng phản ứng với những loại vật liệu hữu cơ, làm tăng sự hủy họai ở cao su, tơ sợi, nilong, sơn và thưốc nhuộm. Áp dụng: Giáo viên có thể lồng ghép vấn đề này vào bài Oxy – không khí (ở lớp 8), bài Oxy – Ozon (ở lớp 10), các bài về chương N (ở lớp 11), bài Hóa học và vấn đề môi trường (ở lớp 12). C/ KẾT LUẬN Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ là mục đích hướng tới của từng người giáo viên có lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp, nhưng đây không phải là điều đạt được dễ dàng. Người giáo viên phải nhận thức rõ vai trò là người “thắp sáng ngọn lửa” chủ động lĩnh hội tri thức trong từng học sinh . Trong nội dung đề tài mình, tôi đã đề cập đến một số vấn đề xung quanh cuộc sống và có ý nghĩa thực tiễn, thậm chí có thể gặp, tiếp xúc hàng ngày.Tôi hi vọng đây là vấn đề gợi mở ra một quan niệm trong dạy − học hoá học, mặc dù trong đề tài này tôi không thể đề cập mọi hiện tượng có liên quan. 1/ Kết quả nghiên cứu: Riêng bản thân tôi nhờ vận dụng phương pháp dạy “Nâng cao hiệu quả dạy và học môn hoá học bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học ” kết hợp với nhiều phương pháp khác, tôi đã đạt được một số kết quả nhất định. Học sinh trở nên thích học hoá hơn, thích những giờ dạy của tôi nhiều hơn, thậm chí có cả những học sinh đã về nhà tự quan sát và tái tạo lại hiện tượng thức tế, rồi lại đến hỏi tôi. Trong giờ học, tôi đã kết hợp hài hoà trong phong cách dạy của mình có thể làm cho giờ học mang không khí rất thoải mái, nhưng khả năng tiếp thu bài cũng rất tốt. Như tôi đã khẳng định: Thời gian giành cho vấn đề này là không nhiều nên cần phụ thuộc vào người dạy cần phải linh hoạt và khéo léo. Bất cứ một vấn đề gì nếu chúng ta quá lạm dụng thì đề không tối. Vì thế tôi vẫn luôn nghĩ: Dạy như thế nào cho tốt là một điều không dễ. 2/ Kết quả đối chứng: Thực tế giảng dạy cho thấy các lớp không hoặc ít áp dụng so với lớp áp dụng giải thích thường xuyên có sự khác nhau rõ rệt. GV: Bùi Xuân Đông

23

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN

Trường THPT Tân Lâm Kinh nghiệm dạy học Ví dụ gần đây nhất qua năm học từ 2008 – 2009 và 2009 – 2010 giảng dạy ở trường tôi đã có số liệu cụ thể theo bảng sau: Kết quả Lớp Mức độ Giỏi Khá Trung bình Yếu – Kém 12B1 Thường xuyên áp dụng 04 15 10 01 12B2 Có áp dụng 01 04 22 02 12B3 Ít áp dụng 00 05 19 05 3/ Kiến nghị, đề xuất: Vấn đề đổi mới phương pháp trong giờ học trong trường phổ thông đang là vấn đề bức xúc. Để dạy hoá học trong nhà trường phổ thông có hiện quả tôi đề nghị một số vấn đề sau: Đối với giáo viên: Phải kiên trì, đầu tư nhiều tâm, sức để tìm hiểu các vấn đề hoá học, vận dụng sáng tạo phương pháp dạy hóa học, để có bài giảng thu hút được học sinh. Đối với Sở GD & ĐT: Cần trang bị cho giáo viên thêm những tài liệu tham khảo cần thiết để bổ sung, hỗ trợ cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Với những sáng kiến kinh nghiệm hay, theo tôi nên phổ biến để cho các giáo viên được học tập và vận dụng. Có như thế tay nghề và vốn kiến thức của giáo viên sẽ dần được nâng lên. Với thực trạng học hoá học và yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, có thể coi đây là một quan điểm của tôi đóng góp ý kiến vào việc nâng cao chất lượng học hoá học trong thời kỳ mới. Mặc dù đã cố gắng song không thể tránh được các thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Sách giáo khoa hoá học lớp 8-9-10-11-12. [2] Phân phối chƣơng trình môn hoá học phổ thông. [3] Sách giáo viên hoá học lớp 8-9-10-11- 12. (NXB GD) [4] Tài liệu giáo khoa chuyên hoá học 11-12 (Tập 1,2 NXB GD) [5] Từ điển hoá học phổ thông. [6] Báo hóa học và ứng dụng. [7] Tƣ liệu của một thầy giáo không nhớ tên. GV: Bùi Xuân Đông

24

Tổ Hóa – Sinh – Kỷ NN