TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG VÀ VI

tham khảo, luận văn gồm 02 chương và 04 tiết. 7 Chương 1 ... pháp tắc dụng binh là tướng soái chịu mệnh lệnh của vua, trưng...

49 downloads 753 Views 331KB Size
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KIỀU TÔ HOÀI

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG VÀ VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học Mã số: 64 31 27

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Hà Nội - 2011

1

Công trình được hoàn thành tại: ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Văn Đức

Phản biện 1: PGS. TS Trần Minh Trưởng Phản biện 2: PGS. TS Phạm Xuân Hằng

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ họp tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN vào hồi 9 giờ ngày 30 tháng 12 năm 2011

Có thể tìm hiểu luận văn tại: - Trung tâm thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội

2

1. Tính cấp thiết của đề tài Đất nước Việt Nam trải ngàn năm dựng nước và giữ nước với biết bao những biến đổi thăng trầm. Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, vai trò của nhân dân cũng luôn gắn với sự tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam. Để giữ vững độc lập chủ quyền của đất nước, công việc quan trọng và trước hết là phải củng cố khối đoàn kết toàn dân tộc, huy động toàn thể nhân dân tham gia vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Hồ Chí Minh - lãnh tụ của Đảng Cộng sản và dân tộc Việt Nam, sau khi ra đi tìm đường cứu nước, Người đã trở về để lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập. Chính Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đã thấy được một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử là "quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử nhân loại". Do đó, Người đã lãnh đạo Đảng và Nhà nước huy động lực lượng của toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Ngày nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, công tác vận động quần chúng càng phải được quan tâm hơn nữa. Để phát triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững đòi hỏi phải huy động được sức mạnh của toàn dân tộc. Để có được sức mạnh to lớn ấy, Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng trong tình hình mới, luôn luôn coi công tác vận động, tổ chức quần chúng nhân dân tham gia vào mọi công việc của đất nước là vấn đề chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.

3

2. Tình hình nghiên cứu vấn đề Công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, mang tính chiến lược của cách mạng Việt Nam. Do đó, đây là vấn đề được nhiều học giả quan tâm và đi sâu nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, thời điểm khác nhau bởi những nghiên cứu lý luận của vấn đề sẽ đem lại cho hoạt động thực tiễn những hiệu quả nhất định, hoặc cũng có thể là một yếu tố, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử - xã hội. Trong lịch sử, vai trò của quần chúng nhân dân đã được rất nhiều bậc hiền triết, anh hùng đề cập và phát huy để giành những thắng lợi to lớn, đó là những nhân vật tiêu biểu như: Khổng Tử, Mạnh Tử, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,… Đến giai đoạn Mác Ăngghen - Lênin thì vấn đề này đã thực sự được luận giải một cách khoa học, hệ thống và có ý nghĩa cách mạng lớn lao. Ở Việt Nam trong thế kỷ XX, chỉ đến khi Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc thì vai trò, sức mạnh của nhân dân mới được huy động tối đa. Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã được rất nhiều học giả thực hiện ở những nội dung khác nhau để làm rõ nội dung, ý nghĩa của những tư tưởng của Người. Đối với công tác vận động quần chúng của Hồ Chí Minh, theo tôi được biết đã có một số công trình nghiên cứu, cụ thể như: - Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong đó, đã trình bày một cách cơ bản những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của

4

khối đại đoàn kết toàn dân, vai trò quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh to lớn của lực lượng toàn dân. - Phạm Văn Bính (chủ biên) (2008), Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã minh chứng quan điểm "lấy dân làm gốc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định "Phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo là từ trong quần chúng ra và trở về nơi quần chúng". Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình của các nhà nghiên cứu như: Đặng Xuân Kỳ, Song Thành, Hoàng Chí Bảo... đã đề cập đến vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy vậy, cho đến nay, nhìn chung vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu toàn diện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng. Với bộ Hồ Chí Minh toàn tập là một nguồn tài liệu chủ đạo để luận văn hoàn thiện những vấn đề nghiên cứu. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng của luận văn là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam để huy động, tập hợp mọi lực lượng tham gia vào sự nghiệp cách mạng nhằm giành những thắng lợi vĩ đại, đưa đến độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và chủ nghĩa xã hội cho Tổ quốc. Từ đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để đưa ra những nhiệm vụ, giải pháp đối với công tác vận động quần chúng trong giai đoạn hiện nay, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của quần chúng - luôn tham gia vào mọi công việc của cách mạng, là vấn đề chiến lược xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.

5

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng; những chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo và thực hiện công tác vận động quần chúng. - Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng những phương pháp luận chung của triết học Mác Lênin và các phương pháp của khoa học xã hội. 5. Đóng góp của luận văn Thông qua luận văn, tác giả mong muốn góp phần tìm hiểu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng, đó là những giá trị lý luận và thực tiễn mà Người đã để lại. Đồng thời, mong muốn những giá trị của Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tiếp tục được vận dụng, phát huy có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay để góp phần xây dựng đất nước dân chủ, công bằng, giàu đẹp, văn minh. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn gồm 02 chương và 04 tiết.

6

Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG 1.1. Khái quát chung về công tác vận động quần chúng 1.1.1. Khái niệm công tác vận động quần chúng Công tác vận động quần chúng là công việc của Đảng, Nhà nước hoặc của các đoàn thể nhằm tuyên truyền, giải thích, động viên làm cho đông đảo nhân dân ủng hộ hoặc tự nguyện làm theo những công việc mang lại lợi ích chung. Khái niệm "công tác vận động quần chúng" cũng được sử dụng bằng cụm từ "dân vận". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho". 1.1.2. Những tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng Trong lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại, ngay từ thời cổ đại đã có rất nhiều bậc danh sĩ, vua chúa đưa ra quan niệm, tư tưởng "quốc dĩ dân vi bản" (lấy dân làm gốc), bởi dân chính là bộ phận (lực lượng) đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn vong của lịch sử nhân loại. Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn thời cổ đại đã sớm nhận ra vai trò của dân chúng, ông đã dùng Nho giáo để giáo hoá, làm cho dân chúng phục tùng thiên tử. "Nho gia thuận nhân tính mà điều hành chính sự nên tin dân yên dân, tỏ rõ chân thành thi hành liêm

7

chính để cốt yên dân". Mạnh Tử cho rằng: Thiên tử sở dĩ có được thiên hạ là do được "ứng mệnh trời", nhưng muốn biết mệnh trời thì phải xem lòng dân "thiên mệnh tại ý dân". Vì vậy, ông đặt ra nguyên tắc nổi tiếng cho nền chính trị nhân trị - đức trị là: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Trong Binh pháp Tôn Tử, dân chúng là lực lượng quan trọng để đánh thắng địch, Tôn Tử cho rằng: "Phàm pháp tắc dụng binh là tướng soái chịu mệnh lệnh của vua, trưng tập dân chúng, tổ chức thành quân lữ…". Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc Việt Nam, đắp đê và chống giặc luôn là hai nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, gắn liền với vận mệnh của quốc gia. Để làm được hai nhiệm vụ đó cần phải huy động sức mạnh của đông đảo quần chúng. Lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam chỉ ra rằng, sự nghiệp kháng chiến chỉ có thể thắng lợi khi người lãnh đạo biết dựa vào sức mạnh của toàn dân, biết tổ chức các cuộc chiến tranh mang tính chất nhân dân. Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, việc huy động sức mạnh của nhân dân đã được các vị thánh nhân và nhiều ông vua thực hiện để đánh thắng giặc phương Bắc và xây dựng triều đại hưng thịnh. Ngay từ đầu công nguyên, Hai Bà Trưng, Bà Triệu đã phất cờ nghĩa để kêu gọi nhân dân tham gia khởi nghĩa. Lý Thường Kiệt cho rằng: Người làm vua của dân cốt phải nuôi dân. Khi nhà Trần nắm quyền cai trị đất nước đã đưa ra rất nhiều chính sách để động viên tài dân, sức dân và được coi là thời kỳ đỉnh cao của nhà nước "thân dân". Vua Trần Nhân Tông cho rằng Đạo Nhân cao cả nhất, ông luôn đặt lợi ích của dân, của nước lên trên hết thảy và ông coi tiếng dân, lòng dân, sức mạnh của dân là điều thiêng liêng nhất. Một khi dân đã

8

đồng lòng thì vận nước mới hưng thịnh, thành công mới đến, chiến thắng mới rủ gọi nhau về. Nghệ thuật quân sự trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên mông là đỉnh cao của nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta trong thời đại phong kiến. Trần Quốc Tuấn luôn dùng kế sách "khoan thư sức dân" để đánh thắng giặc Nguyên mông và xây dựng vương triều Trần thái bình, thịnh trị. Tài năng của Trần Quốc Tuấn biểu hiện ở sự nhận thức rất rõ dân là nguồn sức mạnh của đất nước. Nguồn sức mạnh đó phải được xây dựng, bồi dưỡng lâu dài trong thời bình cũng như trong thời chiến và bằng nhiều chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội. Trần Hưng Đạo đã đúc kết một truyền thống quý báu của dân tộc thành những nguyên lý giữ nước: "Vua tôi đồng lòng, anh em hoà mục, cả nước chung sức"; "phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, ấy là thượng sách để giữ nước vậy"; "phải làm sao để lòng dân không xa rời mình"; "ý chí của nhân dân là thành trì kiên cố để giữ nước". Từ thực tế lịch sử, Nguyễn Trãi đã rút ra những kinh nghiệm quan trọng có tính quy luật, vận nước thịnh hay suy, mất hay còn, đều do sức mạnh của dân quyết định: "Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết". Dân "như nước" có thể "chở thuyền" mà cũng có thể "lật thuyền", và khi "thuyền bị lật mới hay dân như nước", mới hay sức mạnh của dân. Với tấm lòng thương dân, tin dân, Nguyễn Trãi đã nhận thức sâu sắc vai trò quyết định của nhân dân trong những biến thiên của lịch sử. Theo ông, cứu nước gắn liền với dân, cứu nước là để cứu dân, chiến đấu vì nước phải kết hợp với chiến đấu vì dân, đó là sự nghiệp "chí nhân", "đại nghĩa". Với

9

Nguyễn Trãi, dân là gốc của thành, bại, ông khẳng định: có được lòng dân, cố kết nhân tâm thì mới lập được công to, làm nên việc lớn. Lịch sử nhiều lần chứng tỏ: vương triều nào, nhân vật lịch sử nào biết khoan thư sức dân, thi hành chính sách thân dân thì trên dưới đồng lòng, lập nên công to, nghiệp lớn. Không phải ngày nay chúng ta mới coi tư tưởng "lấy dân làm gốc" làm nền tảng giữ và dựng nước, mà từ rất xa xưa tư tưởng đó đã trở thành một chân lý, một giá trị nhân văn đạo đức truyền thống có ý nghĩa trường tồn. Truyền thống đặc sắc của dân tộc ta là cả nước cùng đánh giặc trên cơ sở chăm lo nền tảng xã hội vững bền, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Đến chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lênin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Lênin cho rằng: "Nghệ thuật thuộc về nhân dân. Nó cần phải bắt rễ sâu vào trong đông đảo quần chúng lao động. Nó có nhiệm vụ kết hợp những tình cảm, ý nghĩ và ý chí của quần chúng, đồng thời cổ vũ quần chúng". Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chỉ có trong chủ nghĩa xã hội quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình.

10

1.2. Vai trò của quần chúng nhân dân và những nội dung cơ bản của công tác vận động quần chúng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh 1.2.1. Về vai trò của quần chúng nhân dân Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 đã xác định: Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đến Đại hội toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta một lần nữa khẳng định Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời nhấn mạnh: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta". Trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh thì công tác vận động quần chúng (công tác dân vận) chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong tư tưởng của Người. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng là một hệ thống những quan điểm, phương thức dân vận được thấm nhuần trong cả cuộc đời và trong các tác phẩm của Người. Thương yêu nhân dân, thương yêu

11

con người, tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân là quan điểm bao trùm trong toàn bộ Tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ những ngày đầu dấn thân vào sự nghiệp cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã thấy được vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân và Người sớm khẳng định: quần chúng nhân dân là gốc của sự nghiệp cách mạng; cách mạng là việc chung của cả dân chúng. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam chống lại kẻ thù của dân tộc và giai cấp là chủ nghĩa tư bản đế quốc cướp nước và tay sai của chúng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh luôn lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm "lấy dân làm gốc" xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. Hồ Chí Minh khẳng định: "Địch chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được lòng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta". Với lực lượng đông đảo có tổ chức và với phương pháp cách mạng bạo lực của quần chúng, Hồ Chí Minh đã phát huy sức mạnh dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa Cách mạng tháng Tám 1945 và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. 1.2.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng a. Xây dựng, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc Hồ Chí Minh sớm nhận thức được vị trí, vai trò của vấn đề dân tộc, sức mạnh của đoàn kết dân tộc. Theo Người, có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh để thực hiện thành công sự nghiệp cách

12

mạng. Muốn đoàn kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngoài thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người. Người đã sáng lập ra Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh viết tắt là Việt minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là vận động các lực lượng kề vai thích cánh để "cờ treo độc lập, nền xây bình quyền". Cách mạng tháng Tám nổ ra và thành công là một minh chứng sinh động và rõ nét của sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với quyết tâm đem sức ta mà giải phóng cho ta và một ý chí Không có gì quý hơn độc lập tự do. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời hịch cứu nước, là tiếng gọi của non sông đất nước, đã khơi dậy và làm sôi động tình cảm sâu xa và cao đẹp nhất trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta, việc xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng. Người đã chỉ rõ: Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Người coi công nông cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Đoàn kết toàn dân tộc là cốt lõi của chủ nghĩa yêu nước, là tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Đối với Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước dân chủ,

13

giàu mạnh, văn minh. Tháng 7 năm 1969, khi trả lời phỏng vấn phóng viên báo Granma (Cuba), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và ở sự ủng hộ của nhân dân thế giới”. Đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Hồ Chủ tịch nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng, được Người tổng kết thành một nguyên lý đảm bảo cho mọi thắng lợi: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công“. b. Trách nhiệm của Đảng, chính quyền trong công tác vận dộng quần chúng Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân nhưng nhân dân cần có Đảng dẫn đường. Đảng có trách nhiệm đoàn kết, tập hợp nhân dân, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Thấm nhuần lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta sớm ý thức được rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do đó, Đảng phải không được bỏ sót bất cứ một lực lượng hoặc cá nhân nào nếu muốn giành độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải có chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp với các giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm mẫu số chung. Vai trò lãnh đạo của Đảng là do dân ủy thác cho, Đảng lãnh đạo, dân làm chủ. Chính vì thế, Hồ Chí Minh nêu lên luận điểm nổi tiếng trong bản Di chúc: Đảng ta phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân, và Đảng

14

phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Sau khi giành được độc lập, một nhu cầu bức thiết đặt ra trong lúc này là xây dựng chế độ mới, thành lập chế độ dân chủ nhân dân, bởi Nhà nước dân chủ nhân dân chính là bước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng và Bác đã lãnh đạo xây dựng Nhà nước chuyên chính vô sản, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân và công, nông, trí thức là lực lượng cơ bản để bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, chế độ dân chủ nhân dân là chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước dân chủ nhân dân là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao về dân chủ: Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tích cực lãnh đạo và trực tiếp tham gia xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân. Người đã kêu gọi nhân dân đồng lòng bảo vệ và xây dựng chế độ mới. Hồ Chí Minh khẳng định rằng, chỉ có dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động mới thực sự làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội. Ở Hồ Chí Minh thể hiện sự nhất quán về quan điểm và hành động, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát vọng của toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no áo ấm cho mọi người dân Việt Nam. Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là đem của dân, tài dân, sức dân, làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hồ Chí Minh cho rằng, phải huy động hết mọi tiềm năng, nguồn lực có trong dân để đem lại lợi ích cho dân. Nói cách khác,

15

phải biến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo. c. Tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng nhân dân tham gia sự nghiệp cách mạng Ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một đòi hỏi bức thiết đặt ra là Đảng phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người. Để tạo ra lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh đã tích cực chỉ đạo và trực tiếp tham gia giáo dục, giác ngộ, rèn luyện và tổ chức dân chúng, làm cho nhân dân hiểu vì sao mà phải làm cách mạng, vì sao cách mạng là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người và phải biết làm cách mạng thì mới chóng thành công. Nắm vững những nguyên tắc và quan điểm vận động cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh sáng tạo lịch sử của quần chúng, Hồ Chí Minh dốc lòng dốc sức vào việc động viên và tổ chức những lực lượng cách mạng to lớn của nhân dân. Tuyên truyền, giáo dục và tổ chức quần chúng cũng là nhằm mục đích hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng và Bác đã chỉ đạo vừa thành lập Mặt trận mang tính chất một tổ chức quần chúng có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương, lại vừa tổ chức các hình thức khác đa dạng, phong phú để tập hợp quần chúng. Người thường xuyên nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức

16

trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần", quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người dân. Trong quá trình tiến hành sự nghiệp cách mạng, việc huy động sức dân luôn là yếu tố hàng đầu để giành được thắng lợi. Nhưng cùng với khai thác sức dân, đòi hỏi phải bồi dưỡng sức dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, muốn khai thác sức dân thì phải kiên trì công tác vận động quần chúng. d. Yêu cầu đối với cán bộ làm công tác vận động quần chúng Mọi công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Hồ Chí Minh xác định cán bộ các cấp đều là công bộc của dân, phải gánh vác việc chung cho dân, việc gì có lợi cho nhân dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho nhân dân thì phải hết sức tránh, "Bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm". Người cán bộ, đảng viên muèn ®­îc d©n tin, d©n yªu, muèn ®­îc lßng d©n, tr­íc hÕt ph¶i yªu d©n, ph¶i ®Æt quyÒn lîi cña d©n trªn hÕt th¶y, ph¶i cã mét tinh thÇn chÝ c«ng v« t­, hÕt lßng, hÕt søc phôc vô nh©n d©n. Hồ Chí Minh luôn yêu cầu đối với người cán bộ cách mạng là phải trung với nước, hiếu với dân, đó là phẩm chất đạo đức hàng đầu. Người khuyên cán bộ, đảng viên phải dựa vào dân, gắn bó với dân, lấy dân làm gốc. Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân

17

liệu cũng xong". Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung đề cập đến phương pháp, phong cách làm việc của người cán bộ, mà thực chất là sửa đổi lề lối quan hệ với nhân dân. Người đã đặt nhân dân là đối tượng trọng tâm của việc sửa đổi lối làm việc. Bác Hồ rất quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, tác phong của người cán bộ cách mạng, cán bộ dân vận bởi điều đó có ý nghĩa rất quan trọng đến sự thành bại của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ làm công tác vận động quần chúng phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm và phải thật thà nhúng tay vào việc, phải làm việc một cách thật sự, phải cùng lao động, cùng chiến đấu, lăn vào cuộc sống hàng ngày của quần chúng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cả dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người làm dân vận khéo là phải biết vận động tất cả nhân dân cùng tham gia các phong trào cách mạng. Chương 2 VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 2.1. Thực trạng công tác vận động quần chúng ở nước ta trong thời gian vừa qua Trong những năm vừa qua, công tác vận động quần chúng của các cấp uỷ đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân đã có những chuyển biến tích cực, đóng góp quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.Việc

18

thực hiện dân chủ trong Ðảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân có tiến bộ. Đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng có trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn trong công tác vận động quần chúng. Tuy nhiên, công tác vận động quần chúng vẫn biểu hiện một số tồn tại, hạn chế. Dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa được một số cấp uỷ đảng, chính quyền triển khai thực hiện có hiệu quả. Quy chế dân chủ ở cơ sở còn mang nặng tính hình thức, cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chưa thực sự được phát huy. Một bộ phận cán bộ, công chức trách nhiệm và phong cách phục vụ nhân dân chưa tốt, gây phiền hà cho dân, thiếu phương pháp trong việc vận động, giáo dục, thuyết phục nhân dân. Truyền thống đoàn kết dân tộc ở một số địa phương trong những thời điểm nhất định không thực sự được phát huy, đã làm giảm, gây chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. 2.2. Một số giải pháp nhằm tiếp tục vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng trong giai đoạn hiện nay 2.2.1. Tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với công tác vận động quần chúng Công tác vận động quần chúng luôn luôn được Ðảng ta coi trọng nhằm tập hợp nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn đánh đuổi ngoại xâm, xây dựng đất nước đạt những thành tựu rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới hiện nay. Đảng ta đã khẳng định rằng: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và quan điểm "lấy dân làm gốc" trở thành tư tưởng

19

thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay phải thực hiện tốt phương châm: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ và tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện những vấn đề sau: Một là, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đảng và Nhà nước phải làm cho người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Hai là, Ðảng thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, giải quyết kịp thời những nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của nhân dân. Ba là, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước cho phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước và lợi ích của nhân dân. Bốn là, thường xuyên tuyên truyền, vận động, giáo dục, tổ chức nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền thực sự trong sạch, vững mạnh. Đảng và Nhà nước có trách nhiệm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài để phục vụ cho sự phát triển đất nước. Năm là, Đảng, Nhà nước phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tiên phong, gương mẫu và "không được theo đuôi quần chúng".

20

Sáu là, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. 2.2.2. Củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Đại đoàn kết dân tộc luôn chứng tỏ sức mạnh to lớn, là yếu tố quan trọng bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày nay, đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam và đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để tiếp tục củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh và thực hiện tốt một số nội dung sau: Một là, tiếp tục kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, truyền thống cố kết cộng đồng, những giá trị văn hoá - tinh thần của đất nước được đúc kết qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, đồng thời phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, sống có nghĩa có tình với con người, đặc biệt là phải luôn tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân. Hai là, phát huy nội lực của dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ba là, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

21

Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Năm là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. 2.2.3. Một số vấn đề đặt ra đối với đội ngũ cán bộ, công chức trong việc thực hiện công tác vận động quần chúng Mỗi cán bộ, công chức phải gương mẫu thực hiện phương pháp vận động quần chúng "óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm" như Bác Hồ đã dạy, và "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân" như Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) đề ra, kiên quyết đấu tranh với tệ quan liêu, tham nhũng, gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Phải biết huy động, tổ chức, lãnh đạo quần chúng nhân dân. Sức mạnh của nhân dân là vô cùng, bất cứ việc gì cũng làm được. Để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta phải huy động nhân dân tích cực tham gia. Để có được điều đó, mỗi cán bộ, công chức phải thường xuyên làm công tác vận động quần chúng: Một là, phải luôn luôn bám sát nguyện vọng của quần chúng, có mối liên hệ mật thiết với nhân dân, nghe ngóng để hiểu biết nguyện vọng của nhân dân, tìm tòi phát huy sáng kiến của quần chúng nhân dân, rồi căn cứ vào đó mà đưa ra chủ trương, chính sách cho đúng và kịp thời sửa chữa những chủ trương, chính sách sai lầm.

22

Hai là, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, vì quần chúng nhân dân mà hy sinh chiến đấu. Người cán bộ phải ý thức được trách nhiệm của mình trong việc đảm bảo để người dân thực hiện quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Người cán bộ phải luôn lắng nghe nguyện vọng, phát huy sáng kiến của quần chúng nhân dân, để từ đó lãnh đạo được quần chúng nhân dân vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Ba là, không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực công tác đối với đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng. Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, công tâm, tận tuỵ phục vụ nhân dân. 2.2.4. Đẩy mạnh thực hiện công tác vận động quần chúng tham gia vào giải quyết khiếu nại, tố cáo Thực hiện công tác vận động quần chúng là phải thường xuyên tham gia giải quyết những đề nghị, khiếu nại, tố cáo của người dân được kịp thời, đúng quy định, tạo ra sự đoàn kết, nhất trí cao trong toàn xã hội, đảm bảo sự công bằng, dân chủ và sự đồng thuận của toàn dân. Muốn vậy, đòi hỏi phải có sự tham gia của cả hệ thống chính trị và phải thực hiện tốt một số công việc sau: Một là, đề cao trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc giải quyết các đề nghị, khiếu kiện của công dân theo đúng những quy định của pháp luật, coi đây là công việc quan trọng của cả hệ thống chính trị. Hai là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của nhân dân, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời

23

đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm. Ba là, kịp thời lắng nghe, thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại tố cáo, những nguyện vọng chính đáng và đảm bảo những quyền lợi của nhân dân ngay tại cơ sở. Bốn là, tăng cường hoạt động của Thanh tra nhân dân, tăng cường thực hiện hoà giải tại cơ sở, xây dựng cơ chế và bảo đảm các điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phản ánh trung thực, đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Năm là, kết hợp giải quyết các đề nghị, nguyện vọng, khiếu nại, tố cáo của công dân với tuyên truyền, vận động, đoàn kết nhân dân. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân; tăng cường vận động, thuyết phục công dân chấp hành pháp luật và các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực.

24

KẾT LUẬN Trong suốt tiến trình cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra và nhất quán thực hiện tư tưởng vận động quần chúng nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc. Chính vì vậy, cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu được những thành tựu to lớn: nước nhà thống nhất, giang sơn thu về một mối, cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã thu được kết quả to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Làm tốt công tác vận động quần chúng chính là việc tiếp nối những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phát huy những giá trị của Tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị và toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước. Tiếp tục đẩy mạnh việc quán triệt và thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu: Nước lấy dân làm gốc. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lực lượng chính là ở nơi dân: Gốc có vững cây mới bền Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân

25